Nhiễm nấm Candida và nhiễm nấm Cryptococcus

Nhiễm nấm Candida

Nấm candidas là nguyên nhân thường gặp nhất trong số các loại nấm phát triển nhanh gây bệnh ở người. Nhiễm trùng do nấm có biểu hiện đa dạng từ viêm niêm mạc không biến chứng hoặc bệnh tiến triển nhanh tới tử vong do nhiễm ở bất cứ cơ quan nào (Clin Infect Dis 2009;4:503). Nhiễm nấm thường liên quan tới sử dụng kháng sinh, thuốc tránh thai, điều trị ức chế miễn dịch và độc tế bào, và dị vật trong cơ thể. Các tổn thương do nấm ở ngoài da có thể mất đi nếu loại bỏ các yếu tố thuận lợi (v.d., điều trị kháng sinh) hoặc tồn tại và tiến triển trong trường hợp cơ địa có suy giảm miễn dịch.

Các biến chứng nặng, như nhiễm nấm candida huyết dẫn tới tổn thương da, mắt, nội tâm mạc và viêm xương tủy.

Chẩn đoán

Chẩn đoán nhiễm nấm candida da và niêm mạc thông thường có thể dựa trên khám lâm sàng, tuy nhiên có thể khẳng định bằng phản ứng dịch tiết với kali hydroxide. Trường hợp bệnh không đáp ứng điều trị có thể cấy lại mẫu để loại trừ các nguyên nhân nấm không phải loài C. Albicans. Nhiễm nấm candida xâm lấn được khẳng định bằng cấy máu hoặc mô.



ĐIỀU TRỊ

Nhiễm nấm candida ngoài da niêm mạc thường đáp ứng tốt với điều trị tại chỗ, nhưng đường uống hoặc thậm chí đường tiêm cũng có thể được sử dụng phụ thuộc vào mức độ nặng và cơ địa người bệnh. Nhiễm nấm candida huyết và các nhiễm nấm xâm nhập khác cần kéo dài thời gian điều trị. 

Nhiễm nấm candida huyết liên quan tới catheter tĩnh mạch (xem phần các nhiễm trùng liên quan tới chăm sóc y tế)

Nhiễm nấm Cryptococcus 


Cryptococcus neoformans là loại nấm men phân bố rộng rãi có trong đất và phân chim bồ câu. Bệnh lý thường gặp là viêm màng não (đau đầu và rối loạn ý thức) và viêm phổi (từ tổn thương dạng nốt không triệu chứng tới suy hô hấp tiến triển tối cấp). Tổn thương da do nấm cryptococcus cũng có thể gặp. Thường là các nhiễm trùng cơ hội.

Chẩn đoán

Chẩn đoán khẳng định bằng nhuộm mực tầu thấy bào tử nấm men trong mô hoặc dịch cơ thể. Xét nghiệm ngưng kết Latex với kháng nguyên cryptococcal trong huyết thanh hoặc dịch não tủy cũng có giá trị chẩn đoán, nồng độ kháng nguyên trong huyết thanh cao gợi ý nhiễm nấm toàn thể. Chọc dịch não tủy là cần thiết để loại trừ bệnh lý thần kinh trung ương (central nervous system–CNS) kèm theo ở những người mắc bệnh hệ thống. Luôn phải đo áp lực dịch não tủy, nếu áp lực (>25 cm nước) là một tiên lượng xấu và cần được xử trí, thường bằng chọc dịch não tủy nhiều lần hoặc dẫn lưu não thất.

ĐIỀU TRỊ

Tùy thuộc vào tình trạng miễn dịch và vị trí tổn thương của bệnh nhân. Xử trí tăng áp lực nội sọ rất quan trọng. Nếu áp lực tăng >25 cm nước cần phải làm giảm 50% bằng cách dẫn lưu 30 mL dịch và làm hàng ngày nếu cần.

Nếu ban đầu áp lực dịch não tủy không tăng, việc chọc dẫn lưu chỉ thực hiện nếu các triệu chứng tăng lên (Clin Infect Dis 2010;50:291). Điều trị dự phòng là cần thiết ở bệnh nhân HIV cho tới khi cải thiện chức năng miễn dịch khi điều trị bởi các thuốc kháng virus.